Thời Sự Y Học

Thời Sự Y Học

BS Nguyễn Văn Thịnh
E-Mail: bsnguyenvanthinh@khoahoc.net

1/ CHỨNG TRẦM CẢM CÓ NGUỒN GỐC MẠCH MÁU

         Chứng trầm cảm là một bệnh thường xảy ra ở những người trên 65 tuổi. 15% những người này có các triệu chứng trầm cảm và 3% có một đợt trầm cảm quan trọng. Ở các nhà dưỡng lão thì cứ 3 người sẽ có một người bị chứng trầm cảm. Công trình nghiên cứu 3 đô thị (étude 3C) có mục đích nghiên cứu mối liên hệ giữa bệnh lý huyết quản và chứng sa sút trí tuệ trên một nhóm gồm 10.000 người tuổi trên 64. Nhóm này gồm những người dân ở Bordeaux, Dijon và Montpellier.Công trình nghiên cứu được khởi đầu năm 1999 và những người tham gia đã được xem lại sau 2 và 4 năm. Các trường hợp sa sút trí tuệ và các biến cố về tim mạch đã được ghi vào danh mục.
        Các nhà nghiên cứu Inserm đã đưa vào công trình nghiên cứu của họ 1658 người tuổi từ 65 đến 80. Những người này vào lúc khởi đầu công trình nghiên cứu và 4 năm sau đó đã được chụp IRM não bộ.

        Các tác giả đã chứng nhận rằng nơi những người có các tiền sử trầm cảm , các thương tổn chất trắng là quan trọng hơn so với những người khác và rằng kích thước các thương tổn đã gia tăng nhanh chóng hơn ( trung bình + 0,6 cm3 ).

Các bệnh nhân có thương tổn chất trắng lan rộng hơn ( > 6cm3 ) vào lúc bắt đầu công trình nghiên cứu có nguy cơ phát triển chứng sa sút trí tuệ 3 lần cao hơn so với những người có thương tổn chất trắng ít quan trọng hơn ( < 3 cm3).Từ bấy lâu nay người ta nghi ngờ rằng những yếu tố nguy cơ mạch máu đồng thời cũng là những yếu tố nguy cơ của chứng sa sút trí tuệ. Các tác giả đưa ra giả thuyết nói rằng một sự phân bố mạch (vascularisation) bị thiếu hụt sẽ gây nên sự teo dần dần các bao myéline, điều này giải thích các thương tổn thấy được ở IRM liên kết với bệnh trầm cảm.( LE JOURNAL DU MEDECIN 16/11/2007)

 

2/ XEM TV QUÁ NHIỀU LÀM TĂNG NGUY CƠ BỊ BÉO PHÌ VÀ CAO HUYT ÁP TR EM.

            Các nhà khoa học Hoa Kỳ xác lập một mối liên hệ ở trẻ em giữa việc xem quá nhiều TV với chứng béo phì và cao huyết áp .Tuy nhiên những nhà nghiên cứu khác cảnh giác chống lại những kết luận vội vàng về vấn đề này và đưa ra một mối liên hệ phức tạp giữa lối sống nhàn cư và sức khỏe.

             Thời gian dành cho truyền hình có tương quan dương tính với mức độ nghiêm trọng của chứng béo phì. Mặt khác, mức độ nghiêm trọng của chứng béo phì cũng như thời gian ngồi trước màn ảnh nhỏ là những yếu tố tiên đoán độc lập về sự hiện diện của cao huyết áp.   
             Đây là hai kết luận đạt được bởi các nhà nghiên cứu của đại học Californie ở San Diego.Các dữ  kiện của họ dựa trên sự theo dõi 546 thiếu niên Hoa Kỳ tuổi từ 4 đến 17 tuổi. Các trẻ xem TV mỗi ngày từ 2 đến 4 giờ có nguy cơ bị cao huyết áp nhân lên 2,5 lần so với những trẻ xem dưới 2 giờ mỗi ngày. Nguy cơ này được nhân lên 3,3 lần nơi các trẻ ngồi trước màn ảnh nhỏ 4 giờ mỗi ngày.                                                                              

          « Các thấy thuốc nhi khoa và các thầy thuốc trẻ phải rung chuông báo động, các nhà nghiên cứu Perry Pardee và Jeffrey Schwimmer trong số tháng 12 của American Journal of Preventive Medicine đã viết như vậy. Chỉ 51% các thầy thuốc nhi khoa Hoa Kỳ là khuyên cha mẹ cho phép con cái của họ ngồi trước màn ảnh nhỏ dưới 2 giờ mỗi ngày.Thế mà việc dành ít thời gian  hơn để xem truyền hình được kèm theo những hiệu quả dương tính lên sức khỏe : thật vậy nhiều nghiên cứu chứng tỏ rằng ngay cả khi không gia tăng hoạt động thể dục hàng ngày, việc xem ít TV dẫn đến giảm thể trọng nơi trẻ em và thiếu niên bị chứng béo phì. ( LE JOURNAL DU MEDECIN 16/11/2007)

 

3/ THUỐC CHỐNG TĂNG HUYẾT ÁP CHỮA BỆNH ALZHEIMER

              Theo một nghiên cứu được tiến hành bởi BS.Pasinetti, các thuốc chống tăng huyết áp có thể làm giảm đáng kể nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer. Các nhà nghiên cứu này đã dành 2 năm để khảo sát một ngàn thứ thuốc khả dĩ có những hiệu quả dương tính lên bệnh Alzheimer và chứng sa sút trí tuệ.Trong số 55 thuốc chống tăng huyết áp được chọn lựa, có 7 loại thuốc tỏ ra có hứa hẹn bởi vì tuồng như chúng ngăn ngừa sự sản xuất beta amyloide. Các công trình được tiến hành trên một mẫu chuột Alzheimer đã chứng tỏ rằng propranolol, carvédilol, losartan, nicardipine, amiloride, hydralazine và valsartan ngăn ngừa sự sản xuất beta amyloide nơi động vật này. Các tác giả nghĩ rằng nếu các dữ kiện này được xác nhận nơi người thì chúng ta sẽ có một phương cách mới điều trị bệnh Alzheimer. Tuy nhiên còn nhiều việc cần phải làm bởi vì vai trò tiềm năng của các thuốc này hiện đang còn trong thí nghiệm

           Các nghiên cứu lâm sàng về sự ngăn ngừa và điều trị bệnh Alzheimer còn cần phải được thực hiện nếu như muốn nhận diện những thuốc có hoạt tính anti-oligomérique lên beta amyloide. Những thuốc này phải được cho với liều lượng không ảnh hưởng lên huyết áp của những bệnh nhân Alzheimer có huyết áp bình thường ( LE JOURNAL DU MEDECIN 9/11/2007)

 

4/ PHẪU THUẬT CẮT BỎ TỬ CUNG VÀ CHỨNG SÓN ĐÁI LÚC GẮNG SỨC.

          Sau một phẫu thuật cắt bỏ tử cung ( hystérectomie ), các phụ nữ có nguy cơ gia tăng phát triển chứng són đái lúc gắng sức ( incontinence à l’effort ), Altman và các cộng sự viên (Stockholm) trên cơ sở của Swedish Inpatient Registry đã xác nhận như thế. Các dữ kiện này được thu thập từ năm 1973 đến năm 2003, liên quan đến 165.260 phụ nữ bị giải phẫu cắt bỏ tử cung và một nhóm kiểm chứng 479.506 phụ nữ. Suốt trong 30 năm theo dõi, số phụ nữ phát triển chứng són đái lúc gắng sức hai lần cao hơn trong nhóm cắt bỏ tử cung. Nguy cơ đạt điểm cao nhất 5 năm sau khi phẫu thuật. Altman nhấn mạnh rằng các phụ nữ phải được thông báo về các hậu quả có thể xảy ra của giải phẫu vùng chậu nói chung và phẫu thuật cắt bỏ tử cung nói riêng trước khi chịu một phẫu thuật thuộc loại này. Một bài xã luận do Adam Magos ( Anh) viết tỏ ra khá dè dặt so với những kết luận của nhóm nghiên cứu Thụy Điển. Ông đưa ra phản bác dựa trên cơ sở những công trình nghiên cứu cũ hơn và cho rằng những yếu tố khác có thể giải thích nguy cơ gia tăng bị chứng són đái lúc gắng sức.( LE JOURNAL DU MEDECIN 9/11/2007) 

5/ MÁU CUỐNG RN ĐIU TR BNH ĐÁI ĐƯỜNG.

           Các dữ kiện rất sơ khởi, được trình bày trong hội nghị lần thứ 67 của Hiệp hội Hoa Kỳ về khoa đái đường, cho thấy khả năng điều trị bệnh đái đường loại 1 bằng cách truyền máu cuống rốn của chính bệnh nhân. Những nồng độ hémoglobine glycosylée (Hb A1c) đạt yêu cầu hơn và những nhu cầu về insuline ít hơn đã được xác nhận nơi một chục trẻ em sau khi được truyền chính máu của chúng lấy nơi cuống rốn vào lúc sinh rồi được làm tan đông trước khi truyền.( SCIENCES ET AVENIR 11/2007)

 6/ URATE BẢO VỆ CHỐNG BỆNH PARKINSON.
            Một công trình nghiên cứu trên 18.000 người được theo dõi trong 5 đến 7 năm gợi ý rằng nguy cơ xảy ra bệnh Parkinson càng thấp khi nồng độ urate trong huyết thanh càng cao. Chính do các tính chất chống oxy hóa (antioxydant) mà muối của acide urique có tác dụng bảo vệ thần kinh (effet neuroprotecteur). Câu hỏi được đặt ra là biết làm thế nào để tránh nguy cơ bị sỏi và cơn thống phong (crise de goutte) nếu ta cố ý làm gia tăng nồng độ urate trong máu bằng một điều trị.  ( SCIENCE ET AVENIR 11/2007) 

7/ CHỨNG BÉO PHÌ NGUYÊN NHÂN CA BNH VẨY NN.

          Bệnh vẩy nến ( psoriasis) là một bệnh ngoài da mà nguồn gốc không được biết rõ và gây bệnh cho khoảng 2% dân số. Chứng béo phì vừa được xem như là yếu tố nguy cơ của bệnh vẩy nến, ít nhất là ở các phụ nữ.

         Theo các dữ kiện thu được trong vòng 15 năm bởi công trình nghiên cứu nổi tiếng của Hoa Kỳ về các nữ y tá, nguy cơ bị bệnh vẩy nến rất tương quan với mức độ béo phì và với chỉ số khối lượng cơ thể ( indice de masse corporelle ). Mối tương quan này được nhận thấy ngay ở tuổi 18.Các phụ nữ bị chứng béo phì bệnh lý (obésité morbide) có khả năng mắc phải bệnh này gấp ba lần . ( SCIENCE ET AVENIR 11/2007)

 

8/ ĐIU TR UNG THƯ BNG CÁC IONS CARBONE.

              Từ nay đến vài tháng nữa, bệnh viên đại học Heidelberg (Đức) sẽ đề nghị một phương pháp điều trị bằng các ions carbone được làm gia tốc, đặc biệt thích ứng cho điều trị các khối u ở vùng sâu. Đây là một đầu tiên ở Châu Âu.

Vào mùa xuân năm 2008, bệnh viện đại học Heidelberg ở Đức sẽ khánh thành máy gia tốc ions nặng (accélérateur d’ions lourds) và 3 phòng « hadrothérapie ”. Kỹ thuật này nhắm bắn vào các khối u ung thư bằng các nhân được làm gia tốc (noyaux accélérés), trong trường hợp này là các ions hydrogène (protons) hay carbone.Trung tâm Heidelberg (HIT) là trung tâm đầu tiên ở châu Âu thực hiện phép điều trị này.Tổn phí đầu tư : 120 triệu euro. Hiện nay trên thế giới có 25 trung tâm  liệu pháp proton ( protothérapie), trong đó 2 trung tâm ở Pháp : viện Curie ở Orsay, và trung tâm Lacassagne ở Nice. Nhưng chỉ có 3 trung tâm là hoạt động với carbone. 2 ở Nhật Bản , ở Chiba và Hyogo và 1 ở Đức, ở Darmstadt. Ở đây tại trung tâm nghiên cứu về các ions nặng , nhóm nghiên cứu của nhà sinh vật lý Gerhard Kraft đã kiểm chứng tính vô hại và tính khả thi của kỹ thuật.Trong vòng 10 năm, 350 người đã được được điều trị mỗi ngày bằng phóng xạ , 10 phút mỗi buổi điều trị, trong 3 tuần .Với những kết quả ly kỳ : tỷ lệ sống sót sau 4 năm là 100% đối với các ung thư sụn của đầu và cổ và các ung thư vùng chậu (chondrosarcomes), 86% đối với các ung thư ở các đầu cột sống (chordomes).Từ đó nảy ra ý tưởng xây dựng trung tâm Heidelberg.
              Hadrothérapie đặc biệt thích ứng với các khối u vùng sâu nằm kế cận những cơ quan quan trọng như dây thần kinh thị giác, các xoang (sinus) hoặc thân não. Nhưng cũng thích ứng đối với các ung thư của tiền liệt tuyến, của các tuyến nước bọt và vài chordome đề kháng với điều trị bằng tia X. Bởi vì trái ngược với các photon, khi càng vào sâu trong cơ thể càng mất dần năng lượng, các ions được làm gia tốc (ions accélérés), vào cuối lộ trình của chúng, đặt toàn bộ năng lượng của chúng trong một vùng hẹp được gọi là « pic de Bragg ». Như vậy liều lượng có thể được gia tăng mà không gây hậu quả đối với các mô lành mạnh được đi xuyên qua và các mô bao quanh khối u.
            Hiệu quả sinh học của các ions carbone 2 hoặc 3 lần cao hơn hiệu quả của các protons, Chúng làm vỡ các ADN của các tế bào ung thư và làm chết chúng. ( LA RECHERCHE 11/2007)

 

9/ BỆNH ALZHEIMER VÀ QUÁ TRÌNH LÃO HÓA.

         Những biến đổi não bộ do quá trình lão hóa não bộ bình thường (vieillissement cérébral normal) hoàn toàn khác với những biến đổi gây nên bởi bệnh Alzheimer. Đó là điều đã được chứng tỏ một cách chính xác bởi một công trình nghiên cứu bằng chụp ảnh não bộ của một nhóm nghiên cứu thuộc đại học Caen, được thực hiện nơi 45 người lành mạnh tuổi từ 20 đến 83. Mục tiêu là nhận diện đồng thời các vùng bị thương tổn nhất và các vùng được phòng giữ tốt nhất nơi những người già và so sánh chúng với các vùng não bộ bị biến đổi trong bệnh Alzheimer. Kết quả : trong quá trình lão hóa bình thường, vỏ não vùng trước trán (cortex préfrontal) là vùng bị thương tổn nhất ( teo và giảm chuyển hóa) và phần trước của ngư mã ( hippocampe ) và vỏ não của phần sau của thùy cá ngựa (gyrus cingulaire) là những vùng được phòng giữ tốt nhất.Thế mà hai vùng này lại là những vùng bị thương tổn đầu tiên trong bệnh Alzheimer, kể cả giai đoạn trước sa sút trí tuệ, nghĩa là trước khi xuất hiện những triệu chứng đầu tiên .( LA RECHERCHE 11/2007)

 

10/ NHO TỐT CHO TIM VÀ CÁC MẠCH MÁU.

       Các nhà nghiên cứu  của Madrid đã yêu cầu 15 người khỏe mạnh và 26 người được thẩm tách máu (hémodialysé) uống mỗi ngày 100 ml nước nho vắt. Sau hai tuần lễ, tất cả những người tình nguyện đều có nồng độ cholestérol LDL ( cholestérol « xấu ») hạ xuống và HDL ( cholestérl « tốt ») tăng lên. Ở những bệnh nhân được thẩm tách máu, tỷ lệ cholestérol toàn thể trên HDL, một chỉ dấu của các bệnh tim mạch, đã giảm đi một cách quan trọng, gợi ý một sự giảm nguy cơ. Các nhà khoa học đã nghiên cứu nơi những bệnh nhân được thẩm tách máu những nồng độ protéines MCP-1, một chỉ dấu viêm liên kết với các bệnh tim mạch. Sau 3 tuần tiêu thụ nước nho vắt, các protéines này đã giảm 56%. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng tỏ rằng nước nho vắt giúp các  mạch máu giãn bằng cách làm dễ sự phóng thích monoxyde d’azote. ( SCIENCES ET AVENIR 9/2007)


BS NGUYỄN VĂN THỊNH