Bài Phỏng Vấn Đức Ông Giuse Hoàng Minh Thắng

 


 

 

PHỎNG VẤN

 

ĐỨC ÔNG GIUSE HOÀNG MINH THẮNG, CHỦ TỊCH KMF

Do ký giả cây nhà lá vườn Nguyễn văn Tố thực hiện.

 

 

 

1) Trước thềm năm mới 2012, lời đầu tiên con xin chúc Đức Ông một năm mới dồi dào sức khỏe và gặt hái được nhiều thành quả trong mọi công việc.Cũng nhân dịp này, xin Đức Ông cho biết cảm nghĩ của Đức Ông về năm qua và những mong ước cho năm mới.

 – Xin cám ơn anh. Trong tư cách là Chủ tịch Hội Cựu Chủng Sinh Kontum (CVK) và Hội Ái Hữu và Truyền Giáo Kontum (KMF), tôi đã rất sung sướng nhận thấy càng ngày càng có sự tham gia tích cực của các anh em cựu chủng sinh Kontum cũng như của các thành viên KMF, trong đó có cả các chị và các cháu nữa. Đây là điều Ban Điều Hành đã mơ ước từ 12 năm qua, khi chúng ta chính thức thành lập KMF trong đại hội tại Simmi Valley tiểu bang California mùa hè năm 2000.

Như một hạt giống được gieo vào lòng đất sau nhiều năm chờ đợi, nay hạt giống đã trở thành một cây xanh tươi và bắt đầu lớn mạnh. Bằng chứng là các sinh hoạt của các nhóm CVK/KMF các vùng khác nhau tại Việt Nam cũng như tại hải ngoại. Chứng cớ hiển nhiên nhất là sự thành công của hai chiến dịch quyên góp Mùa Chay và Mùa Vọng năm 2011, như mọi người có thể nhận thấy qua bản tường trình của ban tài chánh và thủ quỹ KMF trên tờ Liên Lạc CVK và trên Website của KMF, mới được thành lập bằng hai thứ tiếng Việt và Anh, nhờ các nỗ lực của anh cũng như của một số anh em khác (xem: www.giupkontum.org).

Điểm son trong năm qua là sự kiện Trạm Xá Cao Thượng, do CVK/KMF tài trợ, đã hoạt động và trợ giúp các bệnh nhân trong vùng. Công lao này phần lớn là của các CVK/KMF Việt Nam.

Trong năm mới này tôi ước mong sẽ có nhiều anh chị em và các cháu tham gia tích cực hơn nữa, nhất là trong việc quảng bá KMF và kiếm thêm nhiều ân nhân dài hạn, để KMF có thể trải dài hoạt động và trợ giúp được nhiều người nghèo hơn.

Tôi cũng mong ước có thêm một số anh chị em và các cháu có khả năng giúp một tay cho các bác các chú trong Ban Điều Hành, để bớt gánh nặng cho vài vị và để công việc tiến triển hơn. Đây cũng là cách chúng ta chuẩn bị nhân lực cho tương lai. Điển hình như bớt gánh nặng cho anh Phạm Hùng Sơn, Tổng thư ký. Từ trước tới nay anh đã phải cáng đáng hầu như hết mọi việc một mình từ A tới Z. Nặng nhất là cho ra tờ LLCVK viết bài, sắp xếp chất liệu, in ấn, đóng và gói gửi bưu điện. Nếu có một số CVK/KMF VN đứng ra đảm trách việc này thì rất tốt.

pv1 

Đức Ông và ký giả Nguyễn văn Tố tại Roma, March 2011.

 

2) Tuy một số anh em CVK và KMF biết Đức Ông qua những sinh hoạt của Đức Ông từ hơn 13 năm qua cho địa phận và Giáo Hội hoàn vũ, hay đã quen biết Đức Ông khi còn ở chủng viện bên Việt Nam, một số đông vẫn không biết nhiều về Đức Ông. Vậy xin Đức Ông cho biết một ít về tiểu sử của Đức Ông, đặc biệt là sự gắn bó của Đức Ông với mảnh đất Kontum.

Tôi sinh năm 1948 tại làng Hoà Lạc, tỉnh Ninh Bình, giáo phận Phát Diệm, BắcViệt. Sau khi di cư vào Nam, gia đình tôi sống tại Thanh Quýt, rồi Phước Tường, và Sơn Trà. Tôi gia nhập Tiểu chủng viện Kontum niên khóa 1958. Hồi đó nhóm chúng tôi đa số là con lính ở Đà Nẵng nên được gọi là “Bọn KBC Sơn Trà”. Vì chưa hết chương trình tiểu học nên chúng tôi được gửi đi học trường Kim Phước do các sư huynh La San điều khiển. Đúng ra thì tôi bắt đầu vào lớp Nhất. Nhưng khi gặp sư huynh Raymond, sư huynh nói ở đây phải học tiếng Pháp khó lắm, thế là tôi và Thư sợ quá rủ nhau xin học thụt xuống lớp Ba cho chắc ăn. Sau một tháng học, chúng tôi đứng đầu lớp, nên các thầy giáo xin các sư huynh cho phép chúng tôi nhảy lớp. Thêm một tháng nữa, lại được đề nghị nhảy lớp. Chúng tôi vể hỏi ý kiến cha Tuệ hồi đó là quản lý và đặc trách các chú bé nhất tiểu chủng viện. Cha bảo chúng mày còn bé học lại cho chắc ăn. Tôi và anh Thư bị trễ hai năm là vì thế.

Khi Đức cha Kim quyết định gửi các lớp từ Second đến Terminal lên học trên Đà Lạt thì cùng với các lớp lớn hơn chúng tôi theo học tại trưòng La San Adran. Khi mãn chương trình Tiểu chủng viện, Đức Cha Kim ra bài sai cho 9 anh em cùng lớp về dậy các lớp đàn em tại Kontum niên khóa 1969-1970. Tôi đuợc Đức Cha giao cho nhiệm vụ làm Tổng giám thị, kiêm đặc trách thể thao thể dục. Bên cạnh đó là dậy Grammaire cho lớp 7A, Histoire cho lớp 6è.

Năm sau Đức Cha quyết định gửi tôi và ba thầy khác sang Roma tu học (thầy Lương, Thái, Tố). Thực ra ban đầu Đức Cha muốn gửi chúng tôi sang Đại chủng viện ở Dijon bên Pháp, nhưng gặp khó khăn với chính quyền Paris. Tiếp đến Đức Cha định gửi sang Quebec, Canada. Nhưng hình như cũng gặp trục trặc. Cuối cùng ngài xin học bổng của Truờng Truyền Giáo Roma. Trong khi chờ đợi giấy tờ xuất cảnh chúng tôi đã theo học Văn Khoa tại Đại học công giáo Đà Lạt. Chúng tôi qua Roma ngày 16-9 năm 1971 và đã theo học Triết và Thần học tại Đại học giáo hoàng Urbaniana ở Roma.

Sau khi Sài Gòn thất thủ hồi tháng 4 năm 1975, tôi tiếp tục học và đã đuợc Đức Cha Kim truyền chức Linh Mục ngày 24-4-1977 tại Roma. Vì không về Việt Nam được nữa, tôi theo học tại Học Viện Thánh Kinh Roma và có chương trình dọn luận án tiến sĩ. Năm 1980 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam xin Tòa Thánh mở Chương Trình Việt Ngữ tại đài phát thanh Vaticăng, Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn viết thư cho cha giám đốc Trường Thánh Phaolô dặn tôi gặp cha Giám đốc đài phát thanh để chuẩn bị mở chương trình Việt ngữ. Thật ra 6 tháng trước đó, tôi đã bắt đầu cộng tác với chương trình Việt ngữ Đài Veritas Manila. Ban đầu tôi làm việc cho cả hai chương trình, sau đó chuyển sang làm toàn thời cho Ban Tiếng Việt Đài Vaticăng, nhưng vẫn cộng tác viết bài và nói đều đặn cho chương trình Việt ngữ đài Veritas cho tới nay.

Trong suốt các năm là sinh viên, hồi còn là chủng sinh trong các tháng hè, tôi đã đi làm việc bên Đức, vừa để có tiền mua sách, vừa để học tiếng Đức. Sau khi chịu chức Linh Mục, trong mùa hè tôi sang Đức coi giáo xứ thay thế các cha sở tại nhiều giáo phận khác nhau, lâu năm nhất là trong hai giáo phận Fulda và Augsburg.

Từ hơn 20 năm qua trong mùa hè tôi vẫn đi dậy các lớp Thánh Kinh, hay giảng tĩnh tâm cho các cộng đoàn Việt Nam tại hải ngoại bên Hoa Kỳ hay nhiều nước Âu châu, cũng như mở các khóa dậy chữa bệnh mà không cần thuốc.

3) Đức Ông đã làm việc cho chương trình Việt Ngữ của đài Vaticăng từ ngày được thành lập cách nay đã hơn ba mươi năm. Điều gì đã làm Đức Ông trung thành như vậy?

Liên quan tới công việc, ngay từ ban đầu tôi đã tự đặt cho mình một vài tiêu chuẩn: tìm cách phục vụ trực tiếp Giáo Hội và quê hương Việt Nam, không đuợc thì mới làm việc cho các cộng đoàn Việt Nam, rồi nếu không được nữa, thì mới làm việc cho các cộng đoàn ngoại quốc. Vì tôi quan niệm đơn sơ rằng: việc cho các cộng đoàn ngoại quốc, mình không làm thì có người khác làm. Còn việc cho Giáo Hội và quê hương Việt Nam, mình là người Việt mà không làm, thì khó kiếm người thay thế, đặc biệt khi đó là công việc ít người thích làm như công việc tại đài phát thanh. Đây cũng là một trong các lý do khiến tôi từ chối sang làm việc bên Đức theo lời mới của Đức Cha Schmidt, Giám Mục phụ tá giáo phận Augsburg, nơi tôi đã làm việc khi còn là chủng sinh, cũng như bỏ dở chương trình hoàn thành luận án tiến sĩ Thánh Kinh, để làm việc trong ngành truyền thông. Việc chung quan trọng và cấp thiết hơn việc tư.

PV2 

Chú thích từ trái qua phải và từ trên xuống dưới: ĐÔ là một cầu thủ tự vệ khét tiếng (Hải Thanh, ĐÔ, Lý, Chuẩn, Tố, Thái, Cao Nhang, Thư; Năm đầu tiên ở Sohier Đà Lạt, lớp Seconde (Lý, Thư, Hân, Chính, Lai, Chuẩn, Hải Thanh, Hải Vân, Thanh berger (rip), Chương, Lương, Triều (rip), Thái, ĐÔ, Tố. Đặc biệt với lớp này là tất cả đều xuất ngoại, trừ Thanh berger chết trên biển khi vượt biên và Chuẩn, và chỉ có một mình ĐÔ làm linh mục; Năm về dạy ở Tiểu chủng viện Kontum (1969-70) với cha giáo Jean Faugère (Cố Cao); 9 thầy (Hải Vân, Hải Thanh, Thanh berger (rip), Thái, Chuẩn, ĐÔ, Tố, Lương, Chính); năm đầu du học Roma (1971-72) (Phan, địa phận Long Xuyên, Phước, địa phận Saigon, Thái, cha Sinh (địa phận Đà Lạt, ĐÔ, Lương, Răn địa phận Long Xuyên, Tố, Bình địa phận Saigon, Đoàn địa phận Đà Lạt); Năm học Đại học Đà Lạt (1970-71) với hai giáo sư cha Lange và cha Mais (Ngô thành Mai).

==

Mặc dù công việc ở đài phát thanh rất gò bó và phải viết bài liên tục mỗi ngày không ngưng nghỉ, nhưng tôi rất hài lòng vì có thể trực tiếp phục vụ Giáo Hội và quê hương Việt Nam như lòng mong ước. Tôi đã dậy Thánh Kinh trên đài phát thanh Veritas Manila từ năm 1983 liên tục cho tới nay.

Song song với công việc tại đài phát thanh Vatican, từ năm 1991 tôi cũng đã nhận dậy Thánh Kinh Cựu Ước băng tiếng Ý tại Học viện giáo lý quốc tế Mater Ecclesiae thuộc Đại học giáo hoàng Urbaniana của Bộ Truyền Giáo, trong 20 năm, tức cho tới năm 2011, và bằng tiếng Anh tại Học viện Regina Mundi thuộc Đại học giáo hoàng Gregoriana ở Roma trong 7 năm, tức cho tới khi học viện này đóng cửa.

Hiện nay tôi tiếp tục là Phó chương trình Việt ngữ đài phát thanh Vaticăng, và cộng tác viên của chương trình Việt ngữ đài phát thanh Veritas Manila. Ngoài ra tôi cũng dành thời giờ để viết hay dịch các sách chữa bệnh, và cho ra các sách về Thánh Kinh, gồm hàng ngàn bài kinh thánh tôi đã viết trong 30 năm qua cho mục Tìm hiểu Thánh Kinh của chương trình Việt ngữ đài Veritas Manila, mục Thần học kinh thánh cho chương trình Việt ngữ đài Vaticăng, và loạt sách Thánh Mẫu Học gồm các bài viết cho mục Mẹ Maria của chương trình Việt ngữ đài Vaticăng từ 5 năm qua.

PV3 

Đức Ông trong văn phòng làm việc ở đài phát thanh Vaticăng, March 2011

 

4) Phải nói rằng ai gặp Đức Ông cũng thấy Đức Ông có một sức khỏe tốt và luôn tươi vui yêu đời. Vậy thì xin Đức Ông cho biết bí quyết của sức khỏe và niềm vui yêu đời đó.

Thực ra tôi rất biết ơn Thiên Chúa đã cho tôi có một sức khỏe tốt, và đó cũng là điều tôi cầu xin Chúa mỗi ngày: có sức khỏe tốt để có thể phục vụ Chúa và phục vụ tha nhân. Từ bé đến nay tôi đã chỉ bị vào nhà thương một lần duy nhất năm 1980, vì bị lạnh phổi và ho.

Có một lời kinh mà tôi rất thích đọc mỗi ngày dâng lên Đức Mẹ “Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ trong con một trái tim thơ trẻ, trinh trong và tinh tuyền như một dòng suối, xin gìn giữ cho con một trái tim đơn sơ không nếm mùi phiền muộn, một trái tim sẵn sàng tận hiến, dễ cảm thông và mềm yếu trước khổ đau, một trái tim trung thành và quảng đại, không bỏ quên một điều thiện nào, và không thù hằn một điều ác nào. Xin ban cho con một trái tim dịu hiền khiêm tốn, yêu mà không đòi được yêu lại, tươi vui tự xóa mình trong một con tim khác trước Con Mẹ, một trái tim bao la và bất khuất, không sự thờ ơ nào có thể làm chán nản mỏi mệt, một trái tim bị Chúa Giêsu dầy vò và tình yêu Người gây thương tích, và vết thương tình yêu đó chỉ lành hẳn trên Nước Trời. Amen.

Có lẽ nhờ thế mà Chúa và Đức Mẹ cho tôi có tính tình luôn vui vẻ, lạc quan và yêu đời.

Chúa cũng cho tôi tính dễ ăn, dễ ngủ, và có thể thích ứng mau chóng dễ dàng với mọi môi trường sống mà không có vấn để. Ăn uống cái gì cũng được và chỉ cần một chiếc ghế và một chỗ để dựa đầu, tôi có thể ngủ ở bất cứ đâu. Tôi cũng luôn nhớ lời ông bà cha mẹ mình dậy xưa kia “Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”. Đi đâu, sống trong môi trưòng nào, thì học hiểu và thích ứng với môi trường đó. Khả năng thích ứng giúp chúng ta bớt gặp khó khăn trong cuộc sống.

Ngoài ra, ngay từ khi mới vào tiểu chủng viện tôi đã xác tín rằng phải cố gắng ăn uống ngủ nghỉ đều đặn mới có đủ sức khỏe để học hành, làm việc và phục vụ tha nhân. Vì thế, tôi coi việc ăn uống ngủ nghỉ là một bổn phận quan trọng và cũng thánh thiêng không kém việc đọc kinh tham dự thánh lễ hay làm các việc thiêng liêng khác. Do đó cho dù không đói hay không thích, tới giờ cũng cứ phải ăn: ăn cho Chúa, ăn cho Giáo Hội. Nhờ thế tôi rất ít khi đau yếu. Khi thân thể khỏe mạnh tráng kiện, thì tinh thần cũng minh mẫn hơn và tính tình cùng dễ chịu hơn.

Cuộc sống nào cũng có những khó khăn trăn trở của nó. Có rất nhiều yếu tố không tùy thuộc chúng ta, nên không nên buồn chán làm gì. Theo tôi, thái độ sống đúng đắn nhất là phải luôn luôn sẵn sàng chấp nhận và sống đơn sơ, tươi vui, tin yêu, phó thác, thế thôi. Đặc biệt khi mình đã chọn sống đời thánh hiến.

PV4 

Đức Ông tại đám cưới Clara, con gái anh Tổng Thơ Ký Phạm Hùng Sơn, Macon, October 2011

 

5) Đức Ông và một số anh em cựu chủng sinh Kontum và thân hữu đã thành lập hội Ái Hữu và Truyền Giáo Kontum viết tắt là KMF năm 2000 tai Hoa Kỳ, như vậy là 12 năm hoạt động rồi. Xin Đức Ông cho biết những thành quả và những kinh nghiệm rút tỉa được trong quá trình đó và những dự tính cho hoạt động tương lai của KMF.

Nói đúng ra ngay từ thập niên 1980 tôi đã có ý tưởng tìm liên lạc với các anh em CVK, vì biết chắc chắn có một số anh em đang sống tại hải ngoại, nhưng không biết ở đâu và chưa tìm ra cách thức. Năm 1982 chính Đức Cha Kim gợi ý cho Lê Văn Thắng cho ra tờ Liên Lạc, từ đó LLCVK thành hình. Số đầu tiên mở đầu với bức thư viết tay của Đức Cha, trong đó ngài nhắn nhủ các CVK sống lưu lạc đó đây tại hải ngoại luôn sẵn sàng cho một ngày trở về quê hương. Sau khi cha Lê Văn Thắng đi làm việc tại Hồng Kông, tờ LLCVK đuợc cha Nguyễn Văn Đích tiếp nối. Khi cha Đích được các bề trên sai đi làm việc tại Singapore, LLCVK được chuyển sang Roma, do tôi phụ trách. Sau một thời gian LLCVK lại được chuyển qua Mỹ, và được tiếp tục ngày càng khởi sắc như ngày nay, nhờ công khó của cha Nguyễn Ngọc Tâm và nhất là nhờ rất nhiều nhiệt huyết và hy sinh của anh Phạm Hùng Sơn.

Bên cạnh đó anh em CVK cũng bắt đầu nghĩ tới một mô thức trợ giúp giáo phận mẹ và nhân dịp Năm Thánh 2000 chúng tôi đã quyết định nhóm đại hội CVK hải ngoại tại Simmi Valley và thành lập KMF. Các hoạt động của KMF ban đầu rất khiêm tốn. Lý do là vì trong hai thập niên 1975- 1995 đa số các CVK chia sẻ cuộc sống khốn khổ của toàn dân trong nước, hay thích ứng vất vả tại hải ngoại. Ai cũng phải đầu tắt mặt tối, chiến đấu với các hoàn cảnh sống mới. Nhưng từ từ cuộc sống ổn định hơn, và cũng tạo ra các điều kiện thuận lợi hơn cho các liên lạc và cộng tác.

 PV5

Đức Ông và một số anh chị em CVK/KMF tại nhà anh Phạm Hùng Sơn, Macon, October 2011 (từ trái: Anh Đức, thủ quỷ KMF, chị Chính, anh Cảnh Hawai, chị Soa (chị anh Tố), cha Thân, Canada, cố vấn KMF), Đức Ông Thắng, anh Tính, chị Tâm, chị Quang, chị Nguyên, thầy Nguyên, anh Viển, anh Tố, anh Quang)

Trong đại hội trại hè CVK lân đầu tiên nhóm tại Simmi Valley, mọi người đã bỏ phiếu bầu Ban Điều Hành, chọn tên gọi, soạn thảo nội quy và đưa ra một vài chương trình hoạt động. Anh em quyết định nhóm đại hội 2 năm một lần để bầu Ban Diều Hành mới. Nói thì dễ, thực hiện lại khó. Sau đó anh em dời lại 3 năm, nhưng cũng chỉ nhóm trại hè đại hội KMF được lần thứ hai tại Half Moon Bay, Bắc Cali năm 2003 và Kỳ 3 ở Huntington Beach, Nam Cali năm 2006. Vì tình hình kinh tế khó khăn, giờ giấc khác nhau và nhiều lý do bất khả kháng khác, từ đó đến nay vẫn chưa có đại hội nào khác, trừ cuộc hội ngộ tại Macon đầu tháng 10 năm 2011. Tuy nhiên KMF vẫn tiếp tục hoạt động với một số dự án và chương trình quyên góp thường niên vào Mùa Vọng và Mùa Chay.

Ngay từ đầu KMF đã tài trợ các chương trình Chén cơm Giáng Sinh và Chén cơm Phuc Sinh, nuôi ăn cho khoảng 40.000-70.000 anh chị em Thượng trong mấy ngày họ tụ tập về dự lễ Giáng Sinh và Tam Nhật Tuần Thánh, xưng tội, cho con rửa tôi, chịu phép Thêm Sức và lãnh nhận các Bí tích. Song song là giúp người phong cùi, trẻ mồ côi và người bệnh tật già cả neo đơn, qua chương trình Nồi cháo tình thương. Ngoài ra, KMF cũng trợ giúp các Yao Phu, một vài chương trình in ấn Thánh Kinh và sách kinh, một vài công trình xây cất, sau cùng là chương trình xây Trạm Xá Cao Thượng năm 2010.

Ban đầu số tiền quyên được rất khiêm tốn, vì số các CVK/KMF tham gia cũng ít. Nhưng 5 năm về sau này sự tham gia ngày càng tích cực hơn. Ban Điều Hành vẫn hằng tâm niệm ý tưởng này: có nhiều giúp nhiều, có ít giúp ít, không có gì thì cầu nguyện. Do đó khi quyên góp không được bao nhiêu anh em vẫn vui vẻ, chứ không chán nản.  

Trong 2 năm qua sự tham dự của các anh chị em và các cháu CVK/KMF đã rất khởi sắc. Với chiến dịch tìm ân nhân dài hạn cho KMF, chắn chắn trong tương lai gần KMF sẽ có thêm nhiều bàn tay liên đới hơn, giúp thoa dịu nỗi khổ đau và cuộc sống nghèo nàn của anh chị em Thượng Kontum.

Với sự đóng góp rất quảng đại của các CVK/KMF và các ân nhân trong năm 2011, trong năm 2012 này KMF sẽ tài trợ cho một số dự án chưa tài trợ được cho tới nay vì thiếu ngân quỹ.

Trước hết là cung cấp thuốc cho các bệnh nhân qua các nhóm nữ tu từng hoạt động trong lãnh vực này, cách riêng cho người phong cùi ở các vùng xa. Tiếp đến là trợ giúp cải tiến điều kiện sống của các học sinh nghèo do các nữ tu trông coi: nhà ở, phòng ốc, bếp, nhà vệ sinh, lương thực, tiền học vv… Xây một cư xá nội trú tại một cứ điểm chưa có nơi sinh hoạt cho người trẻ.

 

6) Đức Ông có tài chữa bệnh bằng Thiên Khí Năng và đã xuất bản một cuốn sách tựa đề “Tự chữa bệnh bằng Thiên Khí Năng” đang được bán khắp năm châu (xem www.giupkontum.org). Vậy xin Đức Ông cho biết từ đâu Đức Ông học được nghề này và Đức Ông có những dự định gì cho tương lai trong lãnh vực chữa bệnh theo phương pháp không cần thuốc hay chữa bệnh bằng dược thảo hay không?

Trong gia đình tôi ông cố là đông y sĩ, ông nội tôi là chuyên viên chữa trị gẫy xương, trật khớp, đau nhức. Trong các kỳ nghỉ hè tôi thường về thăm ông bà nội tôi, và sống với ông bà có khi cả mấy tuần. Vì thế tôi có dịp quan sát cách thức ông nội tôi chữa bệnh và học được một số kiến thức. Thường khi chữa bệnh ông nội tôi giải thích cho bệnh nhân nghe tại sao ông lại thoa bóp và làm như vậy. Khi có đông khách quá, ông nội tôi thường nhờ tôi bóp cho họ trước, để cho bắp thịt và gân cốt mềm mại, chờ tới phiên được chữa. Tôi học được chút ít nghề chữa bệnh là từ đó. Kinh nghiệm này khiến cho tôi rất thương các người bệnh, và tôi cũng quyết định khi nào có cơ hội sẽ học thêm để giúp các bệnh nhân. Trong năm về dậy tại tiểu chủng viện, tôi cũng có dịp chữa cho các chú bị trặc chân trặc tay vì chơi banh, thay vì đem các chú ra cho ông thượng ở ngoài làng.

Hồi thập niên 1980 tôi hay bị cảm cúm trong mùa đông, vì di chuyển bằng xe vespa. Mỗi lần bị cúm như thế phải uống thuốc trụ sinh, đã không khỏi, người lại mệt thêm, lừ đừ cả mấy tuần không làm việc được. Sau đó tôi nhất định không dùng thuốc tây nữa, và sưu tầm các bài thuốc tự nhiên để chữa bệnh. Năm 1991 anh chị Thoại bên Toulouse biết tôi hay sưu tầm các bài thuốc nên gửi cho tôi bài thuốc rượu tỏi. Thế là tôi bắt đầu chế rượu tỏi và uống mỗi ngày. Tỏi có 4 loại thuốc trụ sinh tự nhiên và hằng chục loại vitamin và khoáng chất, nên chữa được hàng chục thứ bệnh của bộ máy hô hấp, tuần hoàn và tiêu hóa. Nhờ rượu tỏi mà trong hơn 20 năm qua tôi đã không bao giờ bị cảm cúm, không bị áp huyết cao, không có mỡ trong máu, không bị bệnh tim, bộ máy tiêu hóa làm việc rất tôt, và da dẻ hồng hào, khỏe mạnh.

Cuối thập niên 1980 tôi cũng bắt đầu mua các sách đông y: thoa bóp phản xạ học, bấm huyệt, châm cứu vv…để nghiên cứu và tự học. Và năm 1996 tôi tình cờ khám phá ra Thiên Khí Năng và phối hợp Thiên Khí Năng với Bấm Huyệt, và Thoa Bóp Phản Xạ Học để chữa bệnh, với nhiều kết quả mau chóng gây kinh ngạc, mà không cần phải dùng bất cứ thứ thuốc nào. Sau 15 năm chữa bệnh bằng cách phối hợp Thiên Khí Năng, Bấm huyệt và Thoa bóp phản xạ học, và nghiên cứu thêm tôi đã viết cuốn “Tự chữa bệnh bằng Thiên Khí Năng”, mà KMF bán và gửi biếu các ân nhân để gây quỷ. Sách giá 20 đôla Mỹ và tất cả tiền bán được sẽ bỏ vào quỹ KMF giúp người nghèo.

Từ tháng 8 năm 2011 tôi cũng đang theo một khóa học Master Herbalist online của trường Natural Healing School Utah, và khám phá thế giới dược thảo. Cuốn sách “66 Công Thức Dược Thảo Chữa các Bệnh Nan Y” tôi sẽ in vào tháng 6 tới đây là kết quả của khóa học hiện nay. Trong tương lai sẽ còn nhiếu sách khác nữa.

Từ hai năm qua, tôi đã tổ chức các khóa dậy dưỡng sinh, chữa bệnh bằng Thiên Khí Năng, Bấm Huyệt và Phản Xạ Học, giờ đây thêm dược thảo nữa, trong các cộng đoàn Việt Nam. Hai khóa đàu tiên tại Oklahoma City. Khóa tới vào đầu tháng tư 2012 tại Wichita, Kansas trong giáo xứ thánh Anthony của cha Phạm Quốc Hùng. Tại Oklahoma tôi cũng đã thành lập Nhóm Tông Đồ Mục Vụ Sức Khỏe, (www.tongdomucvusuckhoe.net) gồm các anh chị em đã học biết chữa bệnh, chia phiên nhau đi trợ giúp các người bệnh nào muốn được giúp đỡ. Có nhiều anh chị chữa bệnh rất mát tay. Trong số các học viên khóa đầu tiên tại Oklahoma City có hai nữ tu và ba giáo dân. Các chị đã tổ chức khóa dạy Thiên Khí Năng tại Việt Nam và hiện nay tại Việt Nam cũng có Nhóm Tông Đồ Mục Vụ Sức Khỏe.

Từ hơn hai năm qua tôi cũng đã cùng với một số các anh các chị tại Việt Nam phát động chiến dịch dùng dầu dừa để chữa bệnh. Công ty dầu dừa Tin Vui của anh Quý nảy sinh từ đó (www.tinvuichualanh.net) . Tiếp đến là chiến dịch dùng trà Neem để chữa bệnh. Việc phối hợp Thiên Khí Năng, Dầu dừa và lá Neem để chữa bệnh đã đem lại các thành quả bất ngờ cho các bệnh nhân phong cùi, Aids Sida và các thứ bệnh nan y như các loại ung thư và vảy nến. Việc trồng cây Neem cũng đơn sơ và dể dàng hơn mọi người tưởng nghĩ. Cành Neem cứ chặt thành khúc giăm xuống đất là mọc tốt ngay, không cần phải ươm hạt.

Thật ra, nếu hiểu biết nhiều hơn về Dinh Duỡng, và biết cách tẩy toàn bộ cơ thể chỉ cần điều chỉnh cách ăn uống sẽ đẩy lui được rất nhiều thứ bệnh.Trong tương lai tôi hy vọng có thể tổ chức nhiều khóa hơn tại nhiều nơi khác nhau.

Điều tôi mơ ước đó là có thể phổ biến các cách thức chữa bệnh mà không cần thuốc này trong các chủng viện, tập viện, các cộng đoàn dòng tu, cũng như các giáo xứ và giáo phận, để cải tiến sức khỏe cho mọi người tại Việt Nam cũng như bên Phi châu, Á châu, châu Mỹ Latinh và Âu châu. Thật đáng tiếc, khi Chúa cho chúng ta biết bao nhiêu cách thức chữa bệnh không cần thuốc, và biết bao nhiêu dược thảo tuyệt vời như thế, mà chúng ta không biết sử dụng và tin dùng. Tôi cũng mơ ước Giáo Hội phục hồi các yếu tố trong sứ mệnh mà Chúa Giêsu đã trao phó cho các môn đệ xưa kia khi sai các vị đi giảng đạo, đó là: loan báo Tin Mừng, xua trừ quỷ dữ và chữa lành tật bệnh.

 

 PV6

Đức Ông và anh chị Phạm Hùng Sơn, Macon, October 2011. Anh Sơn là tổng thơ ký của KMF.


7) Xin cám ơn Đức Ông đã dành nhiều thì giờ để trả lời những câu hỏi trên và giúp độc giả quen biết thêm Đức Ông và những công việc của Đức Ông. Đức Ông có muốn thêm gì nữa không?

 

Xin cám ơn anh. Tôi chỉ xin tái lập lại lời kêu gọi các thành viên Hội Cựu Chủng Sinh Kontum CVK và các thành viên Hội Ái Hữu và Truyền Giáo Kontum (KMF) cũng như các ân nhân trợ giúp một tay quảng bá KMF rộng rãi giữa các người thân bạn bè và đồng nghiệp Việt Nam cũng như nước ngoài, và kiếm thêm thành viên và ân nhân dài hạn cho KMF (mỗi tháng 10 US$, một năm 120 US$), làm sao để trong 5 năm tới KMF có thêm 10.000 thành viên và ân nhân nữa. Xin Thiên Chúa Tình Yêu chúc lành cho lòng quảng đại của các bạn, quý ân nhân và gia đình.

 

         Do ký giả Nguyễn văn Tố thực hiện

                         19.2.2012

 PV7

     Ký giả và Đức Ông tại Macon, Georgia, USA

                               8.10.2011