NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG VIỆC HỌC TẬP

Khi giúp đỡ các em học sinh người Dân Tộc trong việc học tập, các cha, các Sơ và KMF đều nhận thấy rằng các em tại các buôn làng đã luôn phải đối diện với rất nhiều khó khăn, như những người bơi lội ngược dòng, nên rất dễ xẩy ra tình trạng bỏ học giữa chừng.

Theo kết quả của Trung Tâm Nghiên cứu Giáo Dục Dân Tộc, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng số các em học sinh người Dân Tộc đi học rất ít như:

  1. Học lực kém, mất căn bản, khiến các em không còn thích học tập, nên cuối cùng sẽ bỏ học dở dang. 2 môn kém nhất của các em là môn Tiếng Việt và môn Toán.  Tất cả các môn học đều được giảng dậy bằng tiếng Việt.  Trong khi đó, rất nhiều em sống trong gia đình không nói tiếng Việt, nhưng dùng ngôn ngữ riêng của người Dân tộc, của bản làng.  Có lẽ những người Việt Nam tại Hải Ngoại sẽ dễ thông cảm được vấn đề Ngôn Ngữ này hơn cả.
  2. Không có thời gian làm bài tập về nhà, hoặc không có ai trợ giúp các em để giải thích những thắc mắc khi làm bài.
  3. Các Giáo viên cũng không biết tiếng địa phương, nên giữa thầy và trò luôn có những vấn đề về “bất đồng ngôn ngữ” khiến cho việc truyền tải của giáo viên và việc tiếp thu của học sinh gặp nhiều khó khăn.
  4. Hoàn cảnh túng thiếu của gia đình học sinh cũng khiến cho nhiều em phải bỏ học, nhất là khi vào mùa thu hoạch, mùa làm nương rẫy, các dịp lễ lậy tập quán riêng của người Dân Tộc.
  5. Phong tục cổ hủ về độ tuổi kết hôn cũng làm cho nhiều em gái phải nghỉ học sớm để lấy chồng. Ví dụ như nhiều em gái vùng dân tộc thiểu số phải kết hôn và sinh con sớm khi còn ở tuổi vị thành niên.  Câu hò “Lấy chồng từ thuở 13, đến năm 18 thiếp đã 5 con” vẫn còn được áp dụng tại một số nơi của người Dân Tộc thiểu số, đặc biệt là người Mông. Vì thế, các em thường bỏ học khi mới xong lớp 8 để về làng lấy chồng.

Ngoài ra, còn có những vấn đề nhậy cảm liên hệ đến nhà trường và giáo viên như : Giáo viên thường không được trang bị các phương pháp và tài liệu giảng dạy phù hợp để cung cấp các hoạt động học tập tương tác, lấy trẻ làm trung tâm và chơi mà học. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng học tập trong nhà trường còn hạn chế. Ví dụ, tài liệu tham khảo trên lớp và thư viện; điều kiện lớp học, trang thiết bị dạy và học còn ít, thiếu và xuống cấp.

Nghe biết vậy, chúng ta có thể hiểu rằng để có thể thay đổi nên tốt hơn thì đây là một công trình rất lớn, cần có kế hoạch lâu dài và hệ thống.  Nó chẳng phải là công việc của một vài người mà là của cả một hệ thống giáo dục.  Một sự đầu tư rất lớn cho thế hệ mai sau và cho các em người Dân Tộc thiểu số!